Ngày Đăng: 13 Tháng 03 Năm 2015 15 tuổi, Thanh Sang bắt đầu đi theo gánh hát. Tưởng hết cơ cực, nhưng không ngờ vận đen còn đeo đuổi không thôi.
| Bạch Tuyết, Thanh Sang trong vở Kiều Nguyệt Nga – Ảnh: H.K |
Vừa vá lưới vừa ca vọng cổ
Cậu bé làng biển mỗi chiều ngồi vá lưới trên bãi cát thường ngân nga mấy câu vọng cổ. Ấy bởi vì cậu ở gần một rạp hát, cứ vô “coi cọp”, riết rồi mê cải lương như điếu đổ. Đúng ra, cái thời radio còn thu hút mọi người, cứ phát sóng những bài vọng cổ và tuồng cải lương, nên dân miền Nam nghe vọng cổ tới ghiền. Từ nghe, rồi bắt chước giọng ca người này người kia. Thanh Sang ca theo giọng Út Trà Ôn, ai cũng xuýt xoa khen. Cái giọng trầm của Thanh Sang hình như rất hợp với giọng trầm của ông Út Trà Ôn.
Nghe thôi, chưa “đã”, còn phải vô rạp coi cải lương mới sướng. Thanh Sang nói: “Nghe tiếng trống chầu xa xa dội tới là ruột gan tôi đã nôn nao. Rốt ráo làm công việc cho xong để chạy tới rạp mà coi”. Nhưng hồi ấy ông làm gì có tiền mua vé, mà chờ bà bầu xả giàn thì mất hết nửa tuồng, nên Thanh Sang nghĩ cách làm sao để coi được ngay từ đầu tuồng khi mới mở màn. Thế là ông lân la tới chỗ mấy anh đánh trống: “Anh để em đánh giùm cho”. Ờ, đánh hoài cũng mỏi tay, có thằng nhỏ chịu làm giùm thì cho nó làm. Thanh Sang đánh trống một hồi thì người ta bắt đầu kêu khiêng trống vô để chuẩn bị mở màn hát chính thức, vậy là cậu bé làng biển cũng lăng xăng trong đoàn người khiêng trống, lọt vô rạp dễ ợt. Cái trò này đã giúp Thanh Sang coi ké đã đời biết bao nhiêu vở diễn.
Và ấn tượng đầu tiên của cậu bé 12 tuổi là cái hôm đoàn Thanh Minh xuống hát, có con trai bà bầu tên Bảo Quốc mới 6, 7 tuổi mà lên sân khấu hát ngon lành. Cái tuồng Động rồng bí mật có kép Năm Nghĩa chồng bà bầu Thơ làm kỹ xảo tắm máu rồng được đồn đãi trước đó mấy ngày khiến bà con mê mẩn chộn rộn. Khi Thanh Sang được xem thì càng khoái Bảo Quốc rồi tự nhủ: “Ủa nó hát được kìa, mình cũng đi hát được không ta?”.
Vậy là 15 tuổi, giấc mơ thành hiện thực, khi giọng hát Thanh Sang vang trên bờ biển mỗi chiều vá lưới đã lọt vô tai của một ông bầu gánh hát tỉnh lẻ, ông đưa Thanh Sang đi. Chuyến đi mở đầu cho một giấc mộng đẹp nhưng cũng mở đầu cho những cơn ác mộng khác của cuộc đời và nghiệp dĩ.
Anh kép nghèo đói lê đói lết
Đi gánh nhỏ, lại chưa có nghề, dĩ nhiên trước tiên phải đóng vai quân sĩ. Và những dạng “quần chúng” thế này hồi đó thường bị các nghệ sĩ “ngôi sao” ăn hiếp. Cú đầu, nói nặng nói nhẹ là chuyện thường. Hoặc phải xách tráp xách rương theo hầu. Hoặc khi gánh nước về tẩy trang thì mấy nghệ sĩ đàn anh đàn chị nói: “Để tao tẩy trước”. Lại lủi thủi đi gánh thùng nước khác về xài. Thanh Sang nói: “Ngay cả mấy ông nhạc sĩ cũng thị uy với tụi nhỏ. Muốn mấy ổng dợt cho ca đúng nhịp đúng đờn thì phải đấm bóp, làm sai vặt cho mấy ổng. Mà hồi xưa nhạc sĩ cứ đờn ai hát không được thây kệ, rớt nhịp ráng chịu. Còn bây giờ nhạc sĩ giỏi hơn, ai hát yếu thì mấy ổng vớt, đờn theo cho đúng”. Và khi bị ăn hiếp thì những anh quân sĩ ức quá chịu không nổi sẽ xảy ra đánh lộn với nghệ sĩ lớn. Vậy là bị bà bầu chửi, đuổi thẳng tay. Thanh Sang nói: “Tôi đánh lộn hoài, bị đuổi thì đi, chứ không thể chịu được người ta xúc phạm mình quá đáng. Nhịn thì nhịn, nhưng cũng phải có chừng mực thôi”. Hỏi tại sao nghệ sĩ lớn lại ăn hiếp người nhỏ, Thanh Sang lắc đầu: “Thì thấy nó có triển vọng, có thể cạnh tranh với mình”. Thực sự lúc ấy tuy Thanh Sang chưa đóng vai lớn nhưng giọng ca của ông đã hàm chứa một nội lực lớn, một triển vọng lớn mà người biết nghề đã linh cảm được.
Nhưng cái số phận cay đắng vẫn còn đeo theo Thanh Sang lâu lắm mới chịu nhả ra. Ông vô đoàn nào chừng vài tháng là đoàn thua lỗ, rã gánh. Cả chục đoàn như vậy. Đến nỗi có lần ông và vài người bạn quân sĩ tá túc trong một chòi canh, vì không tiền về quê. Đói quá, phải bắt cóc nhái làm thịt, rồi vô xóm xin được tô gạo, về chòi lượm cái thùng thiếc làm nồi mà nấu, húp cháo cầm hơi.
Cuối cùng ông quá giang xe về Sài Gòn, quẩn quanh đi tìm các đoàn hát xin vô làm gì cũng được miễn có hai bữa cơm mỗi ngày. Ông bầu hỏi: “Mày đã từng hát ở đâu?”. “Dạ, đã hát ở đoàn X, đoàn Y, đoàn Z…”. “Trời, mày hát ở đâu thì rã gánh ở đó. Thôi, số mày xui quá, tao không nhận đâu”. Cứ vậy mà đi lòng vòng Sài Gòn, đói lê đói lết… 7 năm trời xa mẹ xa quê, không có tiền đi xe về thăm dù chỉ một lần. Mẹ cũng chỉ biết con trai mình đi hát chứ không rõ nó trôi dạt nơi nào. Bặt vô âm tín. Mù mịt tương lai. Thắc thỏm nhớ thương. Cay đắng phũ phàng. Có lúc tưởng không chịu nổi…
Đến khi đoàn Thanh Hương – Hùng Minh mời Thanh Sang về hát, thì ông có cơ hội đóng chung với cô đào Thanh Hương lừng lẫy tiếng tăm. Vậy là cuộc đời Thanh Sang rẽ sang một hướng khác, bắt đầu thấy ánh sáng của hào quang.
Con số 7 định mệnh
Ba ông mất lúc ông mới 7 tuổi, đó là cột mốc đầu tiên. Cậu bé 7 tuổi đã sớm ý thức mình là “người đàn ông” duy nhất trong gia đình nên không nề hà gánh vác cho mẹ và các chị. Đến khi đi hát, đúng 7 năm sau, ông đoạt giải Thanh Tâm. Ông vô nghề năm 1957 thì đến năm 1964, ông được xướng tên lãnh huy chương vàng cùng với nghệ sĩ Lệ Thủy. Ông đóng vai Tạ Tốn trong vở Cô gái Đồ Long của đoàn Dạ Lý Hương, một vai kép lão tưởng chừng “dìm hàng” anh kép trẻ Thanh Sang, nhưng không ngờ lại đẩy Thanh Sang lên đài danh vọng. Vai Tạ Tốn chẳng những là vai già mà còn khó diễn bởi nhân vật bị mù, làm sao nghệ sĩ sử dụng được đôi mắt hỗ trợ cho tâm trạng. Thanh Sang chỉ còn dùng nội lực trong giọng ca, trong diễn xuất của hình thể, và sự chững chạc của ông đã chinh phục khán giả lẫn ban giám khảo, đến nỗi người ta gọi Thanh Sang bằng biệt danh của Tạ Tốn là Kim Mao Sư Vương. Và vở Cô gái Đồ Long bán vé như tôm tươi, khiến đoàn Dạ Lý Hương phấn khởi. Ông bầu Xuân của Dạ Lý Hương ký liền một hợp đồng lớn và Thanh Sang mừng rỡ chạy ngay về Phước Hải mua một căn nhà cho mẹ.
| Vợ chồng nghệ sĩ Thanh Sang – Ảnh: H.K |
Nhưng dù đoạt giải Thanh Tâm rồi thì các nghệ sĩ thời đó vẫn bị bắt quân dịch. Thanh Sang kể: “Tôi bị bắt quân dịch tới 7 lần. Đi lính hết 7 năm, rồi trốn ra, rồi bị bắt lại, bị bỏ tù 7 lần. Mình muốn đi hát kiếm tiền nuôi gia đình thôi chứ đâu có muốn cầm súng đối mặt với chiến tranh”. Vô trại hoài nên không hát được, rốt cuộc cũng nghèo như trước, dù mang tiếng là huy chương vàng Thanh Tâm. Chợt nhớ nghệ sĩ Diệp Lang cũng có lần kể y như vậy, ông đoạt giải Thanh Tâm năm 1963 rồi cũng bị bắt quân dịch, cũng nghèo khổ lận đận suốt. Thanh Sang lắc đầu: “Ai có tiền lo lót thì được ra hát, còn không cứ cắm trại. Trốn ra được vài lần để hát, khi bị lộ thì bị nhốt cấm túc biệt lập, khổ lắm. Khoảng năm 1974, tôi đã tính chặt ngón tay để miễn quân dịch luôn, nhưng may mà năm 1975 giải phóng đất nước. Tính ra tôi đi lính hết 7 năm. Thật lòng mà nói, cái giá của hòa bình đắt lắm, có khi lớp trẻ chưa từng trải qua chiến tranh chưa thấu hiểu đâu”.
7 người vợ
Và cái duyên với số 7 của Thanh Sang còn là 7 người vợ đi qua cuộc đời ông. Trong đó, có một người là con gái của ngôi sao cải lương Ngọc Nuôi, tên Ngọc Bích. Sau này, dù Thanh Sang và Ngọc Bích đã chia tay, nhưng ông vẫn hát chung với “bà già vợ” trong vở Bên cầu dệt lụa. Ông đóng vai Trần Minh, còn Ngọc Nuôi đóng vai mẹ Trần Minh. Hai mẹ con hát thật ăn ý, giọng ca và diễn xuất của Ngọc Nuôi dù ở tuổi xế chiều nhưng vẫn làm nên một vai diễn để đời. Còn Thanh Sang – Trần Minh làm khán giả rơi nước mắt khi lên câu vọng cổ khóc mẹ vì mẹ đánh không đau. Sau này, ông nói về mẹ vợ của mình thật trìu mến: “Tôi nghe tin bà mất trong khi quỳ lạy Phật tụng kinh, thật là đại phước. Đâu phải ai muốn chết như vậy là được. Có người chết vật vã trong bệnh viện. Có người chết vì tai nạn. Còn bà chết bình an dưới chân Đức Phật. Tôi xúc động lắm”.
Ông trầm ngâm: “Và tôi cũng có 7 năm cô đơn, không vợ con gì hết. Cuối cùng mới gặp “bà Liễu” đây nè”. Bà Liễu tên thật là Ngọc Mỹ. Bà là con gái nhà giàu, mẹ bà vì mê cải lương, mê Thanh Sang mà kêu gả con cho ông một cách ngon lành. Tấm ảnh treo trên tường cho thấy bà hồi ấy rất đẹp, lấy chồng một cách khá ngây thơ. Và bà cũng rất vị tha khi thấy ông chồng “ngôi sao” của mình nhiều ong bướm dập dìu lượn quanh. Có người biết bà là vợ mà cứ xông thẳng vô nhà ngồi… đợi ông. Bà nấu cơm mời ăn, cũng ăn, rồi ngồi… đợi tiếp. Dạng si tình như vậy mà bà Liễu nhịn được, thảo nào đồng nghiệp cứ khen bà. Thanh Sang chỉ còn cách trốn biệt cho người ta nản mà bỏ cuộc. Còn bà Liễu quan niệm: “Ổng là nghệ sĩ thì dĩ nhiên có nhiều người mê. Thây kệ. Cái gì của mình là của mình”. Và bà một tay chèo chống gia đình, nuôi con nhỏ, chăm mẹ già khi chồng đi hát xa. Sau này bà còn mở quán cơm, thức khuya dậy sớm lo nấu nướng, quản lý, vất vả vô cùng. Đến lúc Thanh Sang bệnh nặng, cũng một tay bà chăm sóc. Nhắc ông từng viên thuốc, chở đi khám bệnh, chở đi hát, canh ông trong bệnh viện, đọc kịch bản cho ông, viết lại bản nháp hồi ký mà ông thảy ra… Vừa là vợ, là tài xế, là y tá, là nhắc tuồng, là thư ký, là bảo mẫu… Biệt thự vừa xây rất to bên bờ sông Sài Gòn cũng có công sức của bà rất nhiều. Có lẽ duyên phận của ông kết thúc ở con số 7 này, ở người vợ thứ 7 này cũng là xứng đáng.
Sources: thegioinghesi |
|
|